Văn minh là thuật ngữ quen thuộc, tuy nhiên không phải ai cũng có thể định nghĩa chính xác. Trong bài viết chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về khái niệm văn minh là gì? Đồng thời tìm hiểu các điểm nổi bật tiêu biểu của hai nền văn minh phương Đông và văn minh phương Tây của nền lịch sử văn minh nhân loại.
1. Văn minh là gì?
Theo văn minh thuộc danh từ Hán Việt, trong đó chữ “văn” mang nghĩa vẻ đẹp, còn “minh” là sáng. Hàm ý chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở văn hóa, chính trị, pháp luật và nghệ thuật.
Văn minh là khái niệm chỉ mang tính chất tương đối, thể hiện trạng thái tiến bộ về mặt vật chất, khoa học kỹ thuật và máy móc nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người trong xã hội. Trái nghịch với văn minh là hoang dã, và lạc hậu.
UNESCO định nghĩa: “Văn minh là khái niệm dùng để chỉ trình độ phát triển về giá trị vật chất (là chủ yếu) của một cộng đồng người trong một giai đoạn lịch sử nhất định đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại”. Văn minh đã giúp cho chúng ta thực hiện quyền sống, quyền dân chủ và tự do của từng cá nhân.
Văn minh được định nghĩa khác nhau tùy theo khía cạnh và mỗi nền văn hóa. Theo quan niệm phương Tây, văn minh trong tiếng Pháp là civilisation, còn trong tiếng Anh văn minh được thể hiện bằng từ civilization.
Chữ văn minh trong tiếng Anh và tiếng Pháp có phần tương đồng nhau, cả hai đều có căn gốc Latinh là “civitas” với ý nghĩa là: đô thị; thành phố. Mang hàm ý chỉ giai đoạn con người đã chuyển từ tình trạng cư trú, sinh sống theo tự nhiên sang định cư tổ chức đô thị và hệ thống giao tiếp mang tính biểu tượng như chữ viết.
Nhìn chung, định nghĩa văn minh bao gồm bốn yếu tố cơ bản như sau: đô thị, nhà nước, chữ viết và các biện pháp kỹ thuật cải thiện mang đến sự phát triển và tiến bộ vào đời sống của con người.
2. Sự khác nhau giữa văn minh và văn hóa
Tuy nhiên, chúng ta hay nhầm lẫn giữa “văn minh” và “văn hóa”. Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu sự khác nhau giữa hai khái niệm này là gì nhé! Trước tiên cần phân biệt khái niệm văn hóa là gì?
Văn hóa dùng để chỉ cách ta suy nghĩ, cư xử và hành động. Như đã biết văn minh là quá trình mà một quốc gia/ xã hội bước vào giai đoạn phát triển, tiến bộ của con người.
Theo các nhà xã hội học của thế kỷ 19, văn hóa phát triển sớm hơn văn minh, có văn hóa mới có thể tạo ra văn minh và không chiều ngược lại. Văn minh là một tập hợp phức tạp được tạo thành từ nhiều thứ trong đó có văn hóa. Nói cách khác, văn hóa được tồn tại trong một nền văn minh
Đồng thời chúng ta có thể xét về tính kế thừa, vì tính phức tạp của mình mà văn minh không thể được học hỏi và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác giống như văn hóa.
Một điểm dễ nhìn thấy nhất, chính là văn hóa đa phần được thể hiện trong tôn giáo, phong tục – tập quán, văn học – nghệ thuật, đạo đức, … Còn văn minh thì thể hiện ở các lĩnh vực như hành chính, kiến trúc, luật, cơ sở hạ tầng – kỹ thuật. Từ đó biểu lộ qua bên ngoài, mà ta có thể nhìn thấy được bằng những kết quả cụ thể từ sản phẩm, thiết bị, công nghệ và hệ thống cơ sở hạ tầng.
3. Tìm hiểu đôi nét nổi bật của văn minh phương Đông
Khi nhắc đến lịch sử văn minh của nhân loại, chúng ta không thể không nhắc đến văn minh phương Đông được ra đời từ rất sớm. Ở giai đoạn này đã hình thành và phát triển nhiều thành tựu văn minh nổi bật.
Bốn nền văn minh phương Đông thường được nhắc đến là: văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai cập, văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
3.1 Văn minh Lưỡng Hà
Khi nhắn đến, nền văn minh Lưỡng Hà có lẽ ta sẽ nhớ ngay đến những thành tựu nổi bật trong văn học, có ảnh hưởng lớn đến khu vực Tây Á bao gồm hai thể loại chính văn học dân gian và sử thi.
Theo đó, văn học dân gian như ca dao, truyện ngụ ngôn… phản ánh chân thực cuộc sống lao động của người dân và cách sống ở đời con người. Sử thi xuất hiện từ thời Xume, đến thời Babylon chiếm một vị thế vô cùng quan trọng.
Văn học sử thi thường nhắc đến chủ đề ca ngợi những vị thần, đồng thời những câu chuyện về “khai thiên lập địa” sáng tạo ra loài người, hay “nạn hồng thủy”… trong kinh thánh.
Nền văn minh Lưỡng Hà là cũng là khu vực tồn tại những bộ luật sớm nhất. Từ thời vương triều III của thành bang Ua (thế kỷ XXII-XXI TCN), đã cho ban hành bộ luật cổ nhất thế giới.
Tuy nhiên ngày nay chỉ còn lại một số đoạn nói đến vấn đề thừa kế tài sản, nuôi con nuôi, bảo vệ vườn quả hay trách nhiệm của người chăn nuôi đối với súc vật, sự trừng phạt đối với nô lệ chạy trốn, …
3.2 Văn minh Ai cập
Trong nền văn minh Ai Cập cổ đại, chúng ta không thể không nhắc đến những thành tựu nổi bật về chữ viết, văn học, kiến trúc và các kiến thức khoa học tự nhiên.
Chữ viết của Ai Cập ban đầu là chữ tượng hình dần dần xuất hiện hình vẽ biểu thị âm tiết, dựa vào đó những chữ chỉ âm tiết được phát triển thành chữ cái. Nhờ vậy, tổng số chữ tượng hình có khoảng 1000 chữ, trong đó 24 chữ cái.
Nền văn minh Ai Cập cũng sở hữu kho tàng văn học đa dạng thể loại như: thơ ca trữ tình, tục ngữ, đặc biệt là những câu chuyện trào phúng, thần thoại mang đến bài học giáo huấn cho con người.
Trong thời kỳ này, người dân Ai Cập thường thờ cúng các vị thần thiên nhiên như Địa thần và Thủy thần, thần thú bao gồm phượng hoàng, nhân sư, thậm chí là loại động vật dã thú, gia súc, chim đến côn trùng đặc biệt là bò mộng Apix.
Nhắc đến nền văn minh Ai Cập ta cũng không thể quên tục ướp xác người đã mất. Kiến trúc của nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng đạt đến trình độ rất cao, bằng chứng là một số công trình nổi tiếng vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay như: Kim Tự Tháp, cung điện hay đền miếu.
3.3 Văn minh Trung Hoa
Nền Văn minh Trung Hoa thời cổ – trung đại có sức ảnh hưởng không nhỏ đến các nước phương Đông. Người Trung Hoa đã có Giáp cốt văn tức là chữ viết trên mai rùa, xương thú. Sau đó, dần dần biến đổi thành Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, chữ viết mới trong khuôn hình vuông gọi là chữ Tiểu triện.
Nhắc đến Trung Hoa, ta không thể quên tập thơ cổ đã được Khổng Tử sưu tập và chỉnh lý. Thơ Đường là điểm sáng trong nền thơ ca, với những tác giả nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ hay Bạch Cư Dị.
Một số tác phẩm tiểu thuyết được lưu truyền cho đến ngày như, thậm chí ngày nay còn được chuyển thể thành phim và mang đến nhiều bài học giá trị cho con người như: Tam quốc chí diễn nghĩa, Thuỷ hử, Tây du ký hay Hồng lâu mộng.
Về lĩnh vực, khoa học tự nhiên và kỹ thuật, trong nền văn minh Trung Hoa đã biết sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Nam-Bắc triều, nhà toán học Tổ Xung Chi còn tìm ra số pi xấp xỉ là 3,14159265.
Người Trung Hoa cũng vẽ được bản đồ có tới 800 vì sao và xác định chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi.
Đặc biệt, trong nền văn minh Trung Hoa đã có bốn phát minh quan trọng đóng góp cho nhân loại là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Kiến trúc cũng là niềm tự hào của họ, khi sở hữu những công trình nổi tiếng trên toàn toàn thế giới như Vạn lí trường thành, Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành.
Thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành cũng được ra đời trong thời kỳ này. Theo đó, thuyết âm dương cho rằng vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí là âm và dương. Thế giới được tạo thành từ 8 yếu tố: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ), gọi chung là Bát quái. Và có 4 nguyên tố tạo thành vạn vật là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Về tư tưởng, trong nền văn minh Trung Hoa đã xuất hiện nhiều những nhà tư tưởng lớn như: Khổng Tử, Lão Tử và Trang Tử đưa ra những đạo lý làm nhân, lối sống ở đời cho hợp luân thường đạo lý, nhằm tổ chức xã hội và giải thích những vấn đề trong đời sống.
3.4 Văn minh Ấn Độ
Trong nền văn minh của Ấn Độ đã mang đến những phát minh quan trọng không chỉ đối với người dân Ấn Độ mà còn cả thế giới. Trong đó, họ chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ năm năm thì thêm 1 tháng nhuận.
Ngoài ra, trong thời kỳ này đã biết được quả đất và mặt trăng là hình cầu, tính được quỹ đạo của mặt trăng và chu kỳ trăng tròn, trăng khuyết. Chưa dừng lại, các nhà thiên văn học Ấn Độ còn nhận định có 5 hành tinh trên trái đất gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; biết được một số chòm sao và sự vận hành ngôi sao chính.
Người Ấn Độ có một phát minh ra 10 chữ số trong lĩnh vực toán học, mà ngày nay được dùng phổ biến. Đến thế kỷ VI, người Ấn Độ tính số pi là 3,1416 và diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác lẫn hình đa giác. Học thuyết nguyên tử cũng được ra đời trong giai đoạn này.
Điểm nổi trội trong ngành y khoa, từ thế kỷ VI, V TCN, người Ấn Độ biết cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận. Và điều chế thuốc tê giúp giảm đau khi mổ cho bệnh nhân.
Như bạn đã biết, đạo Phật cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ, sau đó mới lan rộng ra các quốc gia trong đó có Việt Nam. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Bàlamôn, đạo Hindu, hay đạo Xích.
4. Văn minh phương tây có điểm gì khác biệt?
Trong nền văn minh phương Tây sở hữu điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc hình thành con đường giao thương hàng hải, tàu cảng, … khi các quốc gia thuộc khu vực Địa Trung Hải, đường biên giới có 3 mặt tiếp giáp biển.
Từ đó, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, giao lưu buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia; song song với đó sẽ mang những thành tựu văn minh phương Tây truyền bá rộng rãi trên thế giới.
Theo đó, hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã giữ vai trò, đóng góp nhiều thành tựu tiến bộ vào nền văn minh phương Tây, đặt nền móng và tiếp thêm lửa cho thời Phục hưng ở Tây Âu, cũng như vào sự phát triển chung của nhân loại sau này.
4.1 Văn minh Hy Lạp
Người Hy Lạp biết thêm các nguyên âm dựa trên chữ cái của xứ Phoenicia và biến nó thành chữ Hy Lạp. Theo thời gian, hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ trở thành tiền đề cho chữ viết cho nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay.
Văn học cũng là một trong những thành tựu tiêu biểu trong nền văn minh Hy Lạp với kho tàng truyện thần thoại, với những tác phẩm còn giữ nguyên giá trị cho đến hiện nay như: Iliad và Odyssey của Homer. Đồng thời, còn mở đầu cho loại hình nghệ thuật đan xen hai yếu tố bi kịch lẫn hài kịch với nhau.
Lũy thành của Athen là biểu tượng cho bước tiến bộ rõ rệt về mặt kiến trúc của nền văn minh Hy Lạp lúc bấy giờ, trở thành di sản văn hóa cho cả nhân loại.
Nền văn minh Hy Lạp nói riêng hay nền văn minh Hy – La nói chung, đã cho chứng minh được những nổi trội về mặt y học, khi đã biết cách chữa bệnh bằng biện pháp uống thuốc hoặc phẫu thuật. Theo đó, thầy thuốc Hippocrates là người tạo ra phương phương này và được mệnh danh là “Cha đẻ của y học Phương Tây”.
Như chúng ta đã biết về định lý Pythagoras được áp dụng trong lĩnh vực toán học cũng có nguồn gốc từ thời kỳ này. Các nhà khoa học, vật lý học người Hy Lạp cũng đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy Acsimet.
Ngành công nghiệp vận tải biển đã có từ thời cổ đại cũng chiếm “mũi nhọn” trong nền kinh tế của Hy Lạp cho đến ngày nay. Song song với các ngành nghề như dệt, hóa chất, dầu khí, đóng tàu, hay khai thác khoáng sản,…
4.2 Văn minh La Mã
Nền văn minh La Mã chịu ảnh hưởng, kế thừa một số ưu điểm nổi trội từ nền văn minh Hy Lạp. Về chữ viết, La Mã có chữ viết chính thức vào thế kỉ VI TCN cũng có nguồn gốc từ văn tự Hy Lạp. Đây được cho là loại chữ viết khá đơn giản, được áp dụng phổ biến. Sau này, chữ viết này dần dần được sử dụng ở các nước trên thế giới.
Văn học La Mã cũng kế thừa những “điểm sáng” từ nền văn minh Hy Lạp, tuy nhiên cũng có sự phát triển thêm về thể loại như thơ, kịch, sử thi và cải biên hình thành hình tượng những vị thần riêng như: thần Zeus – thần Jupiter, thần Hera, …
Nền văn minh La Mã tuy chịu ảnh hưởng từ Hy Lạp nhưng đã tạo những công trình kiến trúc đồ sộ, khác biệt. Có thể kể đến như: đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.
Không chỉ vậy, lĩnh vực điêu khắc cũng sở hữu nhiều tác phẩm để đời gồm: pho tượng Vệ nữ ở Milo, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần Athena, tượng thần Hecmet…
Đặc biệt, trong thời kỳ văn minh La Mã đã cho ra mắt tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” được coi như quyển Bách Khoa toàn thư, tập hợp toàn bộ tri thức từ các lĩnh vực từ Thiên văn học, Vật lí học, Địa lí học, cho đến Động vật học, Thực vật học… của nhà khoa học Plinius.
Mặc dù nền văn minh Hy – La có nhiều điểm tương đồng, nhưng nền văn minh La Mã cũng có những khác biệt, khi La Mã đã biết sử dụng tiền đồng Sestertius, áp dụng chủ nghĩa duy lý kinh tế – sử dụng hệ thống kế toán, tín dụng và đầu tư ngân hàng.
Bạn có biết, điều gì giúp phương Tây thống trị thế giới trong suốt 500 năm?
Niall Ferguson cho rằng, văn minh phương Tây phát triển rực rỡ, trở nên giàu mạnh là dựa vào “6 ứng dụng sát thủ” gồm: cạnh tranh, khoa học, pháp quyền, y học hiện đại, chủ nghĩa tiêu dùng và đạo lý nghề nghiệp.
Trải dọc chiều dài lịch sử, văn minh phương Tây đóng vai trò trung tâm bên cạnh các nền văn minh khác, trở thành hình mẫu của đa số các quốc thế trên thế giới.
Mong rằng, qua bài viết bạn có thể hiểu khái niệm văn minh, cũng như biết thêm những nét nổi bật của hai nền văn minh phương Đông lẫn văn minh phương Tây.
Sưu tầm
Nguồn ảnh: Internet